Tươi mát ngôn từ, giản dị cảm xúc – Anna Akhmatova

Hôm nay tự dưng bạn Anna Netrebko lại đăng một đoạn clip bạn ấy vừa đi vừa đọc thơ của Anna Akhmatova. Một bài thơ dễ thương, mặc dù hơi khó dịch. Mình thì cuối tuần cũng rảnh rỗi, nên kết quả là một bản dịch ra đời.

* * *
Анна Ахматова
Нам свежесть слов и чувства простоту
Терять не то ль, что живописцу — зренье
Или актеру — голос и движенье,
А женщине прекрасной — красоту?

Но не пытайся для себя хранить
Тебе дарованное небесами:
Осуждены — и это знаем сами —
Мы расточать, а не копить.

Иди один и исцеляй слепых,
Чтобы узнать в тяжелый час сомненья
Учеников злорадное глумленье
И равнодушие толпы.

23 июня 1915
Слепнево

* * *
Anna Akhmatova
Tươi mát ngôn từ, giản dị cảm xúc
Chúng ta mà mất đi, liệu có khác gì
Họa sĩ mất thị giác, diễn viên mất giọng,
Hay mỹ nhân mất nhan sắc diệu kỳ?

Nhưng đừng cố giữ cho mình bạn hỡi
Những gì bầu trời ban tặng cho ta:
Chúng ta bị phán xử – chúng ta tự biết –
Chỉ phung phí thôi, không tích lũy được mà.

Hãy tự đi và chữa lành người mù nhé,
Để trong phút giây nghi vấn nặng nề
Hiểu được thế nào là trẻ ranh nhục mạ
Còn đám đông thì vô cảm thờ ơ.

23.07.1915
Slepnevo

Giờ em đã không còn cười nữa – Anna Akhmatova

Bài thơ này thì hình như mình đã dịch rồi, nhưng bị thất lạc trong quá trình lưu trữ 🙂

Анна Ахматова
Я улыбаться перестала,
Морозный ветер губы студит,
Одной надеждой меньше стало,
Одною песней больше будет.

И эту песню я невольно
Отдам на смех и поруганье,
Затем, что нестерпимо больно
Душе любовное молчанье.

Anna Akhmatova
Giờ em đã không còn cười nữa
Gió lạnh làm buốt giá đôi môi,
Một hy vọng giờ không còn nữa,
Một bài ca thêm với cuộc đời.

Em vô tình đem bài hát ấy
Cho cuộc đời chửi rủa, nhạo cười,
Bởi tâm hồn đau không chịu nổi
Khi tình yêu chỉ im lặng mà thôi.

Vợ của thánh Lót – Anna Akhmatova

Thêm một bài được đặt hàng. Có lẽ là mình chưa thấm được bản gốc, nên bản dịch hơi lủng củng

Thánh Lót ở đây là thánh Lót trong Kinh Thánh. Khi Chúa trời quyết định trừng phạt hai thành phố Sô-đôm và Gô-mô-rơ đầy tội ác, thì chỉ có Lót và gia đình được cứu thoát – hai thiên sứ dẫn Lót và gia đình ra khỏi thành phố này, và dặn họ cứ đi, không được nhìn lại. Tuy nhiên vợ của thánh Lót đã lỡ nhìn lại thành phố Sô-đôm bốc lửa, và bị biến thành tượng muối (Sáng thế ký, chương 19).

800px-Flight_of_LotThánh Lót chạy khỏi Sodom. Tranh của Gustave Dore.

Лотова жена

Анна Ахматова

И праведник шел за посланником Бога,
Огромный и светлый, по черной горе.
Но громко жене говорила тревога:
Не поздно, ты можешь еще посмотреть
На красные башни родного Содома,
На площадь, где пела, на двор, где пряла,
На окна пустые высокого дома,
Где милому мужу детей родила.
Взглянула – и, скованы смертною болью,
Глаза ее больше смотреть не могли;
И сделалось тело прозрачною солью,
И быстрые ноги к земле приросли.

Кто женщину эту оплакивать будет?
Не меньшей ли мнится она из утрат?
Лишь сердце мое никогда не забудет
Отдавшую жизнь за единственный взгляд.
(1924)

Vợ của thánh Lót

Anna Akhmatova

Và thánh Lót bước đi sau thiên sứ của Chúa trời
Cao lớn, sáng ngời, theo núi đen từng bước
Nhưng nỗi lo lắng nói to cùng người vợ:
Vẫn còn chưa muộn, em hãy nhìn nữa
Những tháp đỏ thành phố Sodom thân thương
Nơi ngày xưa em hát ở quảng trường
Nơi kéo sợi ngoài sân, khung cửa sổ ngôi nhà.
Nơi những đứa con em đã sinh ra.
Nàng nhìn lại, và cơn đau chết chóc.
Khóa lấy người – mắt không còn nhìn thấy;
Thân thể nàng trở thành muối trong suốt
Cặp chân nhanh gắn chặt xuống đường.

Ai sẽ khóc cho người đàn bà ấy?
Mất mát của nàng có phải cũng ít thôi?
Nhưng có điều không quên được trong tôi
Cuộc đời hiến dâng vì cái nhìn duy nhất.
(1924)

Hoa bất tử – thơ không đề của Anna Akhmatova

Thực ra thì là thơ không đề, nhưng vì chữ đầu tiên trong bài là Hoa bất tử, nên mình gọi thế. Đây cũng là một bản dịch theo đơn đặt hàng chuyển qua chị Sonata 🙂

bessmertnik

* * *
Анна Ахматова
Бессмертник сух и розов. Облака
На свежем небе вылеплены грубо.
Единственного в этом парке дуба
Листва еще бесцветна и тонка.

Лучи зари до полночи горят.
Как хорошо в моем затворе тесном!
О самом нежном, о всегда чудесном
Со мной сегодня птицы говорят.

Я счастлива. Но мне всего милей
Лесная и пологая дорога,
Убогий мост, скривившийся немного,
И то, что ждать осталось мало дней.

Лето 1916
Слепнево

* * *
Anna Akhmatova
Hoa bất tử khô và hồng nhạt.
Mây trên trời trông khá là thô.
Cây sồi duy nhất công viên nọ
Lá vẫn còn mỏng lắm lơ thơ.

Tia sáng bình minh cháy đến tận nửa đêm.
Trong khung cửa hẹp nhà tôi thật tuyệt!
Những điều diệu kỳ, dịu dàng, tha thiết
Là những chú chim đang nói chuyện với tôi.

Tôi hạnh phúc! Nhưng tôi yêu quý nhất
Là con đường rừng thoai thoải nơi đây
Một chiếc cầu xấu xí hơi cong quẹo,
Và ta chỉ còn phải chờ đợi ít ngày.

Mùa hè năm 1916
Slepnevo

Tiếp tục thơ không đề của Anna Akhmatova

Thật khó tin, nhưng có người gửi mình bài thơ này nhờ dịch. Mình tự cảm thấy, bản dịch của mình mềm mại một cách không cần thiết so với bản gốc.

Анна Ахматова

Чем хуже этот век предшествующих? Разве
Тем, что в чаду печали и тревог
Он к самой черной прикоснулся язве,
Но исцелить ее не мог.

Еще на западе земное солнце светит
И кровли городов в его лучах блестят,
А здесь уж белая дома крестами метит
И кличет воронов, и вороны летят.
1919

Anna Akhmatova

Thế kỷ này tệ hại gì hơn trước?
– Trong khói mù lo lắng với đau buồn
Nó chạm đến vết loét đen tối nhất,
Nhưng không thể nào chữa được vết thương.

Phía tây mặt trời còn đang chiếu sáng
Những mái nhà lấp lánh dưới nắng vàng,
Cái chết trắng nơi đây phá tung nhà cửa
Hú gọi quạ bầy, và đàn quạ bay sang.
1919

Một bài thơ không đề của Anna Akhmatova

Thật tình cờ, khi một người bạn gửi mình bài thơ này nhờ dịch. Mình cảm thấy, bản dịch của mình chưa được như ý lắm, nhất là câu đầu. Nghe bản gốc nó đắng cay, tuyệt vọng, và vang lên hay hơn bao nhiêu, chứa chan thất vọng và chua chát. Còn bản tiếng Việt, cứ gọi là trôi tuột đi. Tuy nhiên, để lưu trữ thì thôi cứ để nó lên blog….

Наталии Рыковой

Всё расхищено, предано, продано,
Черной смерти мелькало крыло,
Все голодной тоскою изглодано,
Отчего же нам стало светло?

Днем дыханьями веет вишневыми
Небывалый под городом лес,
Ночью блещет созвездьями новыми
Глубь прозрачных июльских небес,-

И так близко подходит чудесное
К развалившимся грязным домам…
Никому, никому неизвестное,
Но от века желанное нам.

Tặng Natalia Rykova

Bị trộm, bị phản bội, bị bán đi tất cả,
Cánh tử thần đen tối thoáng hiện ra,
Và nỗi sầu đói khát đang nhai sống
Cớ sao mặt trời vẫn sáng trong ta?

Ban ngày cánh rừng ngoại ô thành phố
Lộng lẫy thở đầy hơi thở anh đào,
Ban đêm vòm trời tháng bảy sâu thăm thẳm
Lấp lánh thêm nhiều những chòm sao,

Và điều diệu kỳ đến gần, gần lắm
Tới những ngôi nhà sắp đổ nát mất rồi…
Điều mà còn chưa ai được biết
Nhưng chúng ta mong mỏi muôn đời.

Gạt ước mơ qua… Anna Akhmatova

Tự dưng hôm nay lúc ngồi đợi, mình thấy mấy bức ảnh này của RIA, và ngẫu nhiên dịch. Đến khi về nhà xem lại, mới thấy, bài thơ này của Anna Akhmatova không quá phổ biến, nhưng chắc chắn, vẫn là bài thơ hay. Ít nhất là với mình, vì mình cảm thấy nhói lòng…

* * *
Анна Ахматова

Отодвинув мечты и устав от идей,
Жду зимы как другие не ждут.
Помнишь, ты обещал, что не будет дождей?
А они всё идут и идут…

Удивлённо смотрю из квартирных окон-
Я во сне или всё ж наяву?
Помнишь, ты говорил, что вся жизнь – это сон?
Я проснулась, и странно, живу…

А назавтра опять мне играть свою роль,
И смеяться опять в невпопад.
Помнишь, ты говорил, что любовь – это боль?!
Ты ошибся, любовь – это ад…

* * *
Anna Akhmatova

Mệt vì ý tưởng, gạt ước mơ qua,
Em đợi mùa đông, như người ta không đợi.
Anh có nhớ, anh hứa, mưa không tới?
Nhưng bây giờ mưa vẫn tuôn rơi…

Em ngạc nhiên nhìn từ khung cửa sổ –
Em đang mơ, hay thực tại là đây?
Anh có nhớ, anh nói, đời là mộng?
Em tỉnh giấc rồi, mà vẫn sống, lạ thay…

Rồi ngày mai em tiếp tục diễn vai,
Và sẽ lại cười không phải lúc.
Anh từng nói, tình yêu là nỗi đau?
Anh nhầm rồi, tình yêu là địa ngục.

Hôm nay là kỷ niệm ngày Anna Akhmatova qua đời – tròn 50 năm trước…

Anna Akhmatova – thêm một bài thơ không đề

Đã lâu lắm rồi mình không dịch thơ, lại càng không dịch Akhmatova, vì những lý do chả cần nói. Hôm nay thì ngẫu nhiên tìm được một bài thơ ngăn ngắn, và có vẻ phù hợp với tâm trạng của mình.

 

* * *
La fleur des vignes pousse
Et j’ai vingt anscesoir
Andre Theuriet*

Молюсь оконному лучу –
Он бледен, тонок, прям.
Сегодня я с утра молчу,
А сердце – пополам.

На рукомойнике моем
Позеленела медь.
Но так играет луч на нем,
Что весело глядеть.

Такой невинный и простой
В вечерней тишине,
Но в этой храмине пустой
Он словно праздник золотой
И утешенье мне.
1909

* Цветок виноградной лозы растет,
и мне двадцать лет сегодня вечером.
Аднре Терье (франц.).

* * *
La fleur des vignes pousse
Et j’ai vingt anscesoir
Andre Theuriet*

Ta cầu nguyện tia sáng qua cửa sổ –
Tia sáng thẳng băng, mảnh dẻ, tái xanh.
Ngày hôm nay từ sáng ta câm lặng
Còn trái tim tựa như vỡ tan tành.

Chiếc bồn rửa tay bên cửa sổ,
Màu gỉ đồng đã nhuộm xanh xanh.
Nhưng tia sáng chiếu vào bồn rửa
Nhìn cũng vui vui, thấy nhẹ mình.

Thật ngây thơ, và quá chừng đơn giản
Trong cái lặng yên của buổi chiều tà,
Nhưng trong phòng nhỏ này trống rỗng
Tia sáng ấy như ngày lễ chói lòa
Và là niềm an ủi cho ta.
1909

* Đóa hoa trên giàn nho đang lớn
Và tôi chiều nay hai mươi tuổi vừa tròn
Andre Theuriet (tiếng Pháp)

Cỏ ba lá Moskva – Akhmatova

Đã lâu lắm rồi mình không dịch thơ Akhmatova. Hôm qua ngẫu nhiên thấy bên blog bác Đông A dịch phần 1, mình lại … ngẫu nhiên dịch. Gọi là để giảm stress cũng được, dù sao cũng sẽ là một bước ngoặt mới của đời mình.

Bản tiếng Nga mình lấy ở chỗ này http://bit.ly/136Zrbf 

Kể ra mà nói, cái tên chung của chùm thơ này làm Nina hơi băn khoăn. Nếu đúng là để chỉ loài thực vật cỏ ba lá, thì nó chả liên quan gì đến nội dung. Cho nên, Nina đoán là có lẽ nó chỉ mang tính biểu tượng cho chùm ba bài thơ mà thôi. Nhưng vẫn dịch tạm cái tên chung là Cỏ ba lá Moskva.

Continue reading

Bài hát ru con – Anna Akhmatova

Nhờ anh L. nhắc, mà mình mới đi đọc lại Akhmatova. Cảm nhận của mình với thơ Akhmatova vẫn không có thay đổi lớn, vẫn cảm thấy có gì đó gần gũi và cay đắng thế nào ấy. Oài, nhưng thế này thì … cứ phải bất hạnh thì thơ mới hay được chắc?

КОЛЫБЕЛЬНАЯ

Анна Ахматова

Далеко в лесу огромном,
Возле синих рек,
Жил с детьми в избушке темной
Бедный дровосек.

Младший сын был ростом с пальчик,-
Как тебя унять,
Спи, мой тихий, спи, мой мальчик,
Я дурная мать.

Долетают редко вести
К нашему крыльцу,
Подарили белый крестик
Твоему отцу.

Было горе, будет горе,
Горю нет конца,
Да хранит святой Егорий
Твоего отца.
1915, Царское Село

BÀI HÁT RU CON

Anna Akhmatova

Xa thật xa trong khu rừng lớn,
Cạnh con sông xanh thật là xanh,
Có một bác tiều phu nghèo khó
Sống với các con trong ngôi nhà nhỏ.

Cậu trai út cao chỉ bằng ngón tay, –
Ôi, làm sao cho con nín bớt,
Ngủ đi, con yên lặng, con ngoan,
Mẹ không phải là người mẹ tốt.

Những tin tức cũng đôi khi bay đến,
Bên hiên ngôi nhà nhỏ của ta,
Cây thập tự Gheorgy trắng nhỏ
Người ta vừa mới tặng cho cha.

Khổ đau đã có, và sẽ còn có nữa
Khổ đau sẽ không rời đến nơi xa,
Hỡi vị thánh Gheorgy vĩ đại
Hãy giữ gìn cho cha của con ta.
1915. Hoàng thôn

Ở đây có lẽ nên chú thích một chút. Trong bản gốc Akhmatova chỉ viết

Подарили белый крестик
Твоему отцу.

Thì nếu dịch sát nghĩa chỉ là “Người ta tặng cây thập tự nhỏ màu trắng cho cha của con”, không dễ hiểu mấy.

Tuy nhiên, thời buổi Internet hiện nay, thì nhờ có Google mình biết được, “белый крестик” là ý nói đến huy chương thánh Gheorgy (Георгиевский Крест). Theo chỗ mình hiểu, đây là bài hát ru cậu con trai Lev của Akhmatova, người cha ở đây là Nicolai Gumilev, năm 1915 ông vừa được tặng huy chương tháng Gheorgy hạng ba (trước đó, năm 1914 ông nhận huy chương thánh Gheorgy hạng tư).

Đây là hình ảnh huy chương ấy – lấy từ rusorden.ru

Huy chương tháng Gheorgy hạng ba

Uploaded with ImageShack.us

Huy chương tháng Gheorgy hạng tư

Uploaded with ImageShack.us

Còn về thánh Gheorgy (Egory) thì để lúc khác tán, giờ mình đang lười…